GDP và GDP bình quân đầu người của Việt Nam hiện nay (Hình từ Internet)
GDP bình quân đầu người của Việt Nam qua các năm
Tăng trưởng GDP bình quân đầu người của Việt Nam từ năm 1990 đến 2024 là một minh chứng rõ ràng về sự phát triển kinh tế mạnh mẽ của đất nước. Cụ thể, từ mức 121,72 USD năm 1990, GDP bình quân đầu người đã tăng lên 4.622,24 USD vào năm 2024. Đây là một mức tăng ấn tượng, gấp khoảng 38 lần trong khoảng thời gian 34 năm.
GDP bình quân đầu người của Việt Nam từ 1990 - 2024 và dự báo đến 2029 (nguồn: statista)
Sự gia tăng GDP bình quân đầu người cho thấy Việt Nam đã đạt được những bước tiến dài trong việc phát triển kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống, và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều thách thức phía trước để duy trì và thúc đẩy sự tăng trưởng này, đặc biệt là trong bối cảnh kinh tế toàn cầu nhiều biến động.
GDP và GDP bình quân đầu người của Việt Nam hiện nay
Theo Tổng cục Thống kê tính đến năm 2023 quy mô nền kinh tế Việt Nam theo GDP ước đạt 10.221,8 nghìn tỷ đồng, tương đương 430 tỷ USD . GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 101,9 triệu đồng/người, tương đương 4.284,5 USD, tăng 160 USD so với năm 2022. Năng suất lao động của toàn nền kinh tế năm 2023 theo giá hiện hành ước đạt 199,3 triệu đồng/lao động (tương đương 8.380 USD/lao động, tăng 274 USD so với năm 2022); theo giá so sánh, năng suất lao động tăng 3,65% do trình độ của người lao động được cải thiện (tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng, chứng chỉ năm 2023 ước đạt 27%, cao hơn 0,6 điểm phần trăm so với năm 2022).
GDP bình quân đầu người của Việt Nam giai đoạn 2000 – 2010
Năm 2001, Việt Nam có chỉ số GDP là 513,2 USD. Đến năm 2006 tăng trưởng lên 996,26 USD và đến 2010 thì chỉ số này là 1628,01 USD.
GDP của Việt Nam không ngừng tăng trưởng qua các năm
Trong giai đoạn này, Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng trong tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội. Kinh tế trong giai đoạn 2001-2010 đã có sự tăng trưởng ổn định và ấn tượng, với tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội bình quân hàng năm đạt 7,2%. Những thành tựu này phản ánh sự phát triển đáng kể và ổn định của nền kinh tế trong thời kỳ này.
Vai trò của GDP thu nhập bình quân đầu người
GDP bình quân đầu người là một trong những chỉ số quan trọng nhất trong việc đo lường sự phát triển kinh tế.
Đầu tiên, chỉ số này giúp cung cấp một cái nhìn tổng quan về mức độ ổn định và phát triển của một quốc gia. Khi GDP bình quân đầu người tăng, điều đó thể hiện rằng nền kinh tế đang phát triển, thu nhập người dân cải thiện và mức sống được nâng cao. Ngược lại, GDP bình quân đầu người thấp hoặc giảm có thể cho thấy sự suy thoái kinh tế, thu nhập thu hẹp lại và chất lượng cuộc sống suy giảm.
GDP giúp Chính phủ hoạch định chiến lược kinh tế
Thứ hai, GDP bình quân đầu người còn giúp đánh giá hiệu quả của các chính sách kinh tế mà một quốc gia áp dụng. Chính phủ và các nhà hoạch định chính sách có thể dựa vào chỉ số này để phân tích những thành công hay hạn chế trong chiến lược phát triển kinh tế. Từ đó có những điều chỉnh phù hợp nhằm nâng cao năng suất lao động, cải thiện cơ cấu kinh tế và phân phối thu nhập công bằng hơn.
Thứ ba, GDP bình quân đầu người là một thước đo quan trọng để so sánh sự phát triển giữa các quốc gia hoặc vùng lãnh thổ. Nó cho phép các nhà kinh tế và các tổ chức quốc tế đánh giá và xếp hạng mức độ phát triển kinh tế của từng nước.
GDP bình quân đầu người là một chỉ số quan trọng, mang tính chất nền tảng giúp định hướng và đo lường sự phát triển kinh tế của một quốc gia.
Dự báo GDP bình quân đầu người của Việt Nam giai đoạn 2024 – 2029
Dự báo mức GDP bình quân đầu người của Việt Nam giai đoạn 2024 đến năm 2029 là từ 4622,54 USD lên đến 6542,78 USD vào năm 2029. Cụ thể GDP bình quân đầu người sẽ được dự đoán từng năm như sau:
Đây là con số thể hiện rõ sự tăng trưởng đồng bộ và tính toán dựa trên số liệu giữa các năm. Khẳng định về một sự phát triển kinh tế mang tính chất ổn định và có phần nổi bật so với các nước trong khu vực hiện nay.
Các chỉ tiêu phục vụ biên soạn tổng sản phẩm trong nước
Căn cứ Điều 9 Nghị định 94/2022/NĐ-CP quy định tính các chỉ tiêu phục vụ biên soạn tổng sản phẩm, tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương như sau:
Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) thực hiện:
- Tổng hợp, xử lý thông tin đầu vào đã được thu thập như sau:
+ Bộ Kế hoạch và Đầu tư (Tổng cục Thống kê) trực tiếp thu thập thông tin; tổng hợp thông tin từ bộ, ngành, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và tập đoàn, tổng công ty nhà nước để biên soạn GDP, GRDP.
+ Bộ, ngành cung cấp thông tin phục vụ biên soạn GDP, GRDP theo quy định của chế độ báo cáo thống kê cấp quốc gia.
+ Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cung cấp thông tin phục vụ biên soạn GDP, GRDP theo Biểu 01/TKQG, Biểu 02/TKQG, Biểu 03/NLTS, Biểu 04/NLTS, Biểu 05/CNXD và Biểu 06/TMDV quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định 94/2022/NĐ-CP.
+ Tập đoàn, tổng công ty nhà nước cung cấp thông tin phục vụ biên soạn GDP, GRDP theo Biểu 01/TCT, Biểu 02/TCT, Biểu 03/TCT, Biểu 04/TCT, Biểu 05/TCT, Biểu 06/TCT, Biểu 07/TCT, Biểu 08/TCT, Biểu 09/TCT và Biểu 10/TCT quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị định 94/2022/NĐ-CP.
- Tính các chỉ tiêu theo phạm vi cả nước gồm:
+ Trị giá hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu;
+ Trị giá dịch vụ xuất khẩu, nhập khẩu;
+ Thuế sản phẩm, trợ cấp sản phẩm và các chỉ tiêu thống kê khác.
- Tính các chỉ tiêu theo phạm vi vùng, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm:
+ Thuế sản phẩm, trợ cấp sản phẩm và các chỉ tiêu thống kê khác.
- Hoàn thiện, giải trình kết quả tính các chỉ tiêu phục vụ biên soạn GRDP sau khi thống nhất số liệu giữa trung ương và địa phương.
GDP bình quân đầu người của Việt Nam giai đoạn 2010 – 2020
Năm 2010: 1.628,01 USD nhưng đến năm 2014 đã tăng lên đến 2.566,85 USD. Đến cuối giai đoạn, năm 2019, GDP bình quân đầu người của Việt Nam là 3.425,09 USD, sau đó tăng lên 3.548,89 vào năm 2020 và đạt 3.694,02 USD vào năm 2021.
So sánh GDP bình quân đầu người của Việt Nam với các nước khác
Năm 2021, Việt Nam đứng thứ 41 trong số 50 nền kinh tế lớn nhất thế giới và thứ 5 tại Đông Nam Á về quy mô GDP. GDP bình quân đầu người của Việt Nam đạt khoảng 3.743 USD, đứng thứ 6 trong khu vực và thứ 124 toàn cầu. Trong khi đó, Singapore dẫn đầu Đông Nam Á với khoảng 66.263 USD, xếp thứ 8 thế giới.
Vào năm 2002, GDP bình quân đầu người của Việt Nam chỉ là 547 USD, xếp thứ 160/195 toàn cầu. Đến năm 2021, con số này đã tăng lên 3.743 USD, gấp 3,7 lần so với 19 năm trước.
Việt Nam đang tập trung vào phát triển kinh tế bền vững và cải thiện chất lượng cuộc sống. Đến năm 2030, nước này hướng tới mục tiêu đạt GDP bình quân đầu người khoảng 7.500 USD và trở thành quốc gia công nghiệp hiện đại với thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, mục tiêu là trở thành quốc gia phát triển và có thu nhập cao.
Việt Nam là một quốc gia có chỉ số GDP tăng trưởng đều, ổn định. Điều này thể hiện sự phát triển kinh tế của cả nước và mức sống của người dân ngày một nâng cao. Thông qua chỉ số GDP qua các năm sẽ giúp chúng ta biết được những chiến lược kinh tế mà chính phủ đề ra đã đạt hiệu quả và đang từng bước đưa Việt Nam phát triển không ngừng.
Theo dữ liệu từ IMF, năm 2023, xét 6 quốc gia có quy mô kinh tế lớn nhất Đông Nam Á (ASEAN-6) thì Singapore đang là quốc gia có GDP bình quân đầu người cao nhất với mức 84.730 USD/người, đứng đầu khu vực và nằm trong top 5 toàn cầu.
Malaysia đứng thứ hai trong nhóm ASEAN-6 với 12.570 USD/người, Thái Lan đứng thứ ba với 7.340 USD/người.
Các quốc gia còn lại có GDP bình quân đầu người dưới 5.000 USD/người, lần lượt là Indonesia (4.940 USD/người), Việt Nam (4.320 USD/người) và Philippines (3.870 USD/người).
Nếu tính trung bình 10 năm trở lại đây (2014-2023), tốc độ tăng GDP bình quân đầu người của Việt Nam cao nhất nhóm với 6%/năm. Nhưng đáng ngạc nhiên là dù đã có GDP bình quân đầu người ở mức rất cao thì Singapore vẫn duy trì được tốc độ tăng trung bình lên tới 5%/năm.
Cá biệt, theo dữ liệu IMF, năm 2021, GDP bình quân đầu người của Singapore tăng tới 33% so với năm trước, hồi phục từ mức giảm 9% của năm 2020. Năm 2021 cũng là năm quy mô kinh tế của Singapore đạt mức tăng trưởng kỷ lục trên 7%, mạnh nhất kể từ năm 2010.
Sang năm 2022, GDP bình quân đầu người Singapore vẫn tiếp tục tăng 11% và chỉ mới chững lại từ năm 2023, giảm nhẹ 4%.
Các quốc gia còn lại trong nhóm có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đầu người trung bình thấp hơn lần lượt là Indonesia và Philippines (khoảng 3%/năm) sau đó là Malaysia và Thái Lan (2%/năm).
Là một cảng nước sâu quan trọng và một trung tâm giao thương quốc tế, Singapore còn có chính sách kinh tế mở cửa và thuận lợi, tạo điều kiện cho đầu tư và hoạt động kinh doanh. Sự ổn định chính trị và pháp luật cũng làm tăng tính hấp dẫn của Singapore đối với các nhà đầu tư. Singapore cũng duy trì mức thuế thấp so với nhiều quốc gia khác.
Đất nước này đang sở hữu hàng loạt tập đoàn hàng đầu DBS Group Holdings (tập đoàn ngân hàng hàng đầu ở Singapore và khu vực Đông Nam Á), Singapore Telecommunications Limited (Singtel, viễn thông), Jardine Matheson Holdings (đa ngành), United Overseas Bank Limited (UOB, ngân hàng), Singapore Airlines Limited (SIA, hãng hàng không chất lượng hàng đầu thế giới)...
Ngoài hệ thống tài chính và logistic hiện đại và phát triển, bao gồm các ngân hàng, trung tâm tài chính, cảng biển và sân bay quốc tế, Singapore cũng không ngừng thúc đẩy sự đổi mới công nghệ và sáng tạo thông qua việc hỗ trợ nghiên cứu và phát triển, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp khởi nghiệp và công nghệ mới. Điều này giúp Singapore duy trì sự cạnh tranh và tiếp tục phát triển trong môi trường kinh doanh toàn cầu ngày nay.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, để tiếp tục phát triển, Singapore có thể sẽ phải đối mặt thách thức và giải quyết các vấn đề về môi trường, giao thông và chất lượng cuộc sống, cũng như các thay đổi về mặt chính trị.